Allium ursinum – Bärlauch – Tỏi gấu

Tỏi gấu hay hành gấu (Allium ursinum) là một loài thực vật lâu năm, chủ yếu mọc hoang dã và có họ hàng gần với hành tăm. Tên gọi khoa học của nó có nguồn gốc từ một thực tế là gấu nâu cũng như lợn rừng thích ăn củ của loài này và chúng đào bới đất để lấy củ.

Tỏi gấu mọc chủ yếu tại các khu rừng lá sớm rụng vùng đầm lầy ôn đới thuộc châu Âu, Bắc Á, Bắc Mỹ, và nó là phổ biến nhất trong các khu vực với đất chua, trong các thung lũng gần các con sông. Ở dạng hoang dã, nó có thể mọc và phát triển tốt tận khu vực lãnh nguyên . Nó ra hoa trước khi ra lá mới và làm cho không khí sặc mùi tỏi khá mạnh rất đặc trưng của nó.

Lá tỏi gấu được người ta thu hoạch để làm xà lách, luộc hay làm một loại pesto (một dạng nước chấm kiểu Italy). Nó cũng được sử dụng làm cỏ khô cho gia súc. Bò ăn cỏ có chứa tỏi gấu sẽ tiết ra sữa có mùi tỏi hơi nhẹ, và bơ làm từ loại sữa này đã từng rất phổ biến tại Thụy Sĩ vào thế kỷ 19.

Bär

Chứng cứ đầu tiên đã biết về việc con người sử dụng tỏi gấu có từ khu định cư thời đại đồ đá giữa tại Barkaer (Đan Mạch), tại đây người ta đã tìm thấy những dấu vết của lá tỏi gấu. Tại khu định cư thời đại đồ đá mới ở Thayngen-Weier, Thụy Sĩ (văn hóa Cortaillod) người ta cũng phát hiện thấy hàm lượng cao của phấn hoa tỏi gấu trong các lớp di chỉ, điều này được diễn giải như là chứng cứ của việc sử dụng tỏi gấu làm cỏ khô.

Lá tỏi gấu, thường được thu hoạch vào mùa xuân, trước khi nó ra hoa. Củ của tỏi gấu nhỏ, không được sử dụng trong nấu ăn, mặc dù nó không độc hại cho sức khỏe khi sử dụng. Mùi vị của lá tỏi gấu là trung gian giữa mùi lá hành hay lá tỏi và nó giàu vitamin C.

Tỏi gấu đặc biệt phổ biến trong ẩm thực của các khu vực như Kavkaz, Siberi, Viễn Đông, Đức, Triều Tiên và miền bắc Trung Quốc. Tại khu vực phía tây của Nga và Ukraina người ta cũng sử dụng tỏi gấu, nhưng ít phổ biến hơn. Tại Kavkaz, người ta sử dụng tỏi gấu chủ yếu trong các món ăn nóng. Tại Tây Âu, đặc biệt là tại Đức và Áo, người ta dùng tỏi gấu như một thành phần để làm một số loại bánh mì (bärlauchbrot) và bánh nướng (bärlauchkuchen) cũng như trong một dạng pesto đặc biệt (bärlauchpesto) cùng húng quế. Tỏi gấu (tiếng Đức: bärlauch, nghĩa là ‚hành/tỏi gấu‘) gần đây một lần nữa đã trở thành phổ biến trong ẩm thực Đức. Thị trấn Eberbach là nơi diễn ra hội chợ tỏi gấu hàng năm vào tháng 3 và tháng 4 dưới tên gọi „Eberbacher Bärlauchtage“.

Allium ursinum, known as wild garlic, wild cowleek, ramsons, buckrams, broad-leaved garlic, wood garlic, bear leek or bear’s garlic, is a bulbousperennialflowering plant in the amaryllis family Amaryllidaceae. It is native to Europe and Asia, where it grows in moist woodland. It is a wild relative of onion and garlic, all belonging to the same genus, Allium.

387_Allium_ursinum

The Latin name is possibly due to the brown bear’s taste for the bulbs; folk tales describe the bears consuming them after awakening from hibernation. Another theory is that the „ursinum“ may refer to Ursa Major, as A. ursinum was perhaps one of the most northerly distributed Allium species known to the ancient Greeks, though this hypothesis is disputed. Common names for the plant in many languages also make reference to bears

Illustration_Allium_ursinum1

The leaves of A. ursinum are edible; they can be used as salad, herb, boiled as a vegetable,[ in soup, or as an ingredient for a sauce that may be a substitute for pesto in lieu of basil. The stems are preserved by salting and eaten as a salad in Russia. A variety of Cornish Yarg cheese has a rind coated in wild garlic leaves. The leaves can be pickled in the same way as Allium ochotense known as mountain garlic in Korea. The bulbs and flowers are also edible. It is used for preparing herbed cheese, a Van speciality in Turkey.

The leaves are also used as fodder. Cows that have fed on ramsons give milk that tastes slightly of garlic, and butter made from this milk used to be very popular in 19th-century Switzerland.

The first evidence of the human use of A. ursinum comes from the Mesolithic settlement of Barkær (Denmark), where an impression of a leaf has been found. In the Swiss Neolithic settlement of Thayngen-Weier (Cortaillod culture), a high concentration of pollen from A. ursinum was found in the settlement layer, interpreted by some as evidence for the use of A. ursinum as fodder

Panorama03

Panorama05

 

Panorama06

Linh lan hay lan chuông (danh pháp khoa học: Convallaria majalis), là loài duy nhất trong chi Convallaria thuộc một họ thực vật có hoa là họ Asparagaceae. Nó có nguồn gốc trong khu vực ôn đới mát của Bắc bán cầu tại châu Á, châu Âu và Bắc Mỹ. Nó là một loài cây thân thảo sống lâu năm có khả năng tạo thành các cụm dày dặc nhờ loang rộng theo các rễ ngầm dưới mặt đất gọi là thân rễ. Các thân rễ này tạo ra rất nhiều chồi mỗi mùa xuân. Thân cây cao tới 15–30 cm, với hai lá dài 10–25 cm và cành hoa bao gồm 5-15 hoa trên đỉnh ngọn thân cây. Hoa có màu trắng (ít khi hồng), hình chuông, đường kính 5–10 mm, có mùi thơm ngọt; nở hoa về cuối mùa xuân. Quả của nó là loại quả mọng màu đỏ, nhỏ với đường kính 5–7 mm.

Convallaria_majalis_-_Köhler–s_Medizinal-Pflanzen-045

Nó là một loại cây cảnh trồng phổ biến trong vườn vì các hoa có mùi thơm của nó.

Lá và hoa linh lan chứa các glycozit như Convallimarin, Convallarin có tác dụng tim mạch và được sử dụng trong y học trong nhiều thế kỷ. Với các đơn thuốc quá liều nó có thể gây ngộ độc; các loài vật nuôi và trẻ em có thể bị thương tổn khi ăn phải linh lan.

A1

Linh lan bị ấu trùng của một số loài thuộc bộ Lepidoptera phá hoại, như Antitype chi.

Hoa này trong tiếng Anh còn được gọi là Our Lady’s tears (Nước mắt của Mẹ) do, theo một truyền thuyết, từ những giọt nước mắt của Eva rơi xuống, khi bị đuổi ra khỏi thiên đàng, đã trở thành hoa linh lan. Một thuyết khác cho rằng linh lan xuất hiện từ những giọt nước mắt của Đức Mẹ đồng trinh Mary khi chúa Jesus bị đóng đinh câu rút[. Theo một truyền thuyết khác, hoa linh lan cũng đã xuất hiện từ máu của Thánh Leonard trong trận chiến của ông với con rồng. Các tên gọi khác trong tiếng Anh là May Lily (huệ tháng Năm), May Bells (hoa chuông tháng Năm), Lily Constancy (huệ chung thủy), Ladder-to-Heaven (thang tới thiên đường), Male Lily and Muguet v.v.

A2
Hoa Linh Lan

Theo truyền thống, hoa linh lan được bán tại Pháp trên các đường phố vào ngày 1 tháng 5 và được tặng cho nhau như một thứ đem lại may mắn. Kể từ năm 1982, hoa linh lan là quốc hoa của Phần Lan. Nó là loài hoa chính thức của các hội đoàn như Pi Kappa Alpha, Kappa Sigma và của liên đoàn các bà xơ Alpha Epsilon Phi tại Hoa Kỳ.

Tên gọi „lily of the valley“ („linh lan“) cũng được sử dụng trong một số bản dịch ra tiếng Anh của Kinh Thánh phần Nhã ca 2:1, mặc dù từ trong tiếng Hêbrơ là „shoshana“ nguyên thủy được dùng tại đó không chắc chắn có phải để chỉ loài hoa này hay không.

linh lan hay lan chuong

Lily of the valley, Convallaria majalis ,sometimes written lily-of-the-valley, is a woodland flowering plant with sweetly scented, pendent, bell-shaped white flowers borne in sprays in spring. It is native throughout the cool temperate Northern Hemisphere in Asia and Europe.

Due to its dense content of cardiac glycosides, it is highly poisonous if consumed by humans or domestic animals.

Other names include May bells, Our Lady’s tears, and Mary’s tears. Its French name, muguet, sometimes appears in the names of perfumes imitating the flower’s scent. In pre-modern England, the plant was known as glovewort (as it was a wort used to create a salve for sore hands), or Apollinaris (according to a legend that it was discovered by Apollo).

Convallaria majalis is an herbaceous perennial plant that often forms extensive colonies by spreading underground stems called rhizomes. New upright shoots are formed at the ends of stolons in summer, these upright dormant stems are often called pips. These grow in the spring into new leafy shoots that still remain connected to the other shoots under ground. The stems grow to 15–30 cm (6–12 in) tall, with one or two leaves 10–25 cm (4–10 in) long; flowering stems have two leaves and a raceme of five to fifteen flowers on the stem apex.

The flowers have six white tepals (rarely pink), fused at the base to form a bell-shape, 5–10 mm (0.2–0.4 in) diameter, and sweetly scented; flowering is in late spring, in mild winters in the Northern Hemisphere it is in early March. The fruit is a small orange-red berry 5–7 mm (0.2–0.3 in) diameter that contains a few large whitish to brownish colored seeds that dry to a clear translucent round bead 1–3 mm (0.04–0.12 in) wide. Plants are self-sterile, and colonies consisting of a single clone do not set seed.

Panorama002

Panorama001

Convallaria majalis

Cây bả chó (Colchicum autumnale), còn gọi là báo vũ, thu thủy tiên, huệ đất hay nghệ tây mùa thu, tên gọi cuối là do nó có bề ngoài khá giống với cây nghệ tây thực thụ, nhưng nó chỉ nở hoa về mùa thu. (Tuy nhiên, đây không phải là một sự phân biệt đáng tin cậy, do nhiều loài nghệ tây thực thụ cũng nở hoa vào mùa thu). Nó còn có tên gọi trong tiếng Anh là „naked lady“ do một thực tế là các hoa nổi lên từ mặt đất rất lâu sau khi các lá đã chết.

Colchicum_autumnale_-_Köhler–s_Medizinal-Pflanzen-044

Loài thực vật này hay bị những người nhặt lá nhầm lẫn với tỏi gấu (Allium ursinum), do nó hơi giống với loài cây này, nhưng nó là một loài cây độc gây chết người do sự có mặt của chất độc colchicin. Triệu chứng ngộ độc colchicin tương tự như ngộ độc thạch tín (asen) và không có thuốc giải độc. Mặc dù là một chất độc, nhưng colchicin vẫn được chấp thuận cho sử dụng để điều trị bệnh gút và còn được dùng trong nhân giống thực vật để sản xuất các giống đa bội.

Illustration_Colchicum_autumnale0

Trong bả chó, bả chuột thường có cyanua, thallium là chất cực độc. Nếu không may ăn phải thì sẽ bị ngộ độc. Người bị ngộ độc thường có biểu hiện co giật, khó thở, tụt huyết áp và bị giảm thông khí. Nếu không xử lý kịp, bệnh nhân sẽ giảm trương lực cơ và mất phản xạ, trụy tim mạch, hạ oxy trong máu và dẫn đến tử vong.

Co1
Colchicum autumnale , April 2021

Co2

_____________________________________________________

Phân biệt giửa tỏi gấu , linh lan và bã chó :
tỏi gấu , linh lan và bã chó thường thường bắt đầu mọc vào đầu tháng ba , tuỳ theo thời tiết có thể mọc nhanh hay chậm . Không nên hái lá lúc cây đang mọc mà đợi cho nó ra hết lá bắt đầu mọc hoa thì mới hái . Lá chưa mọc ra hết , ít tinh dầu hơn lá trưởng thành . Khi cây bắt đầu mọc chồi hoa thì dể phân biệt 3 loại nầy .

  • bã chó không có chồi hoa vì bã chó ra hoa vào mùa thu , khoảng tháng 10
  • tỏi gấu và linh lan thì ra chồi hoa . Nhưng linh lan thì chồi hoa có nhiều hoa , hình cái chuông . Tỏi gấu thì hoa có cánh nhọn , nhuỵ vàng

Khi hái không nên giựt cả cây lên mà chỉ cắt lá thôi , để lại hoa , để cây có thể gieo hạt và mọc thêm năm sau .

Khi bạn được người quen tặng cho tỏi gấu thì đừng nên nấu liền . Nên rửa sạch , để ráo khô rồi xem từng lá . Nếu nghi ngờ thì rờ lá , rồi ngưởi xem có mùi tỏ không .
Trong thiên nhiên tỏi gấu thường mọc lẩn lộn với linh lan . Nếu lở có ăn , mà có cảm thấy cảm giác lạ thì kêu xe cứu thương nhập viện liền không nên chờ lâu .

Bärlauch alter Blatt

Bärlauch junger Blatt

Allium ursinum. Copyright Tai Do Khac , April 2021

____________________________________________________

Equipement

Bärlauchpesto

Diese Zutaten brauchst du für dein Bärlauchpesto:

  • 200 g Bärlauch
  • 25 g Pinienkerne
  • 25 g Parmesan
  • 1 Teelöffel Salz
  • 150-250 ml Olivenöl

TG01
Tỏi gấu với canh

TG02
Tỏi gấu với trứng

Hinterlasse einen Kommentar