Phan Thiet – Ký ức về Đông Dương
Cá hồi giống như tên gọi của nó, là loài cá sẽ hồi hương về nơi mà chúng đã ra đi. Được sinh ra ở vùng nước ngọt nhưng khi trưởng thành loài cá này sẽ theo các dòng sông bơi ra đại dương, nơi chúng có thể thỏa sức vẫy vùng. Giống như một vòng tròn khép kín, cá hồi sinh ra ở đâu sẽ tìm cách quay trở lại đó, chúng phải bơi ngược dòng sông để lên thượng nguồn, đây rõ ràng là việc làm khó khăn hơn rất nhiều việc bơi thuận theo dòng nước.Nhưng tại sao chúng lại phải khổ nhọc như vậy?, hơn nữa có rất nhiều dòng sông đổ ra biển chứ không phải một, ấy vậy mà cá hồi vẫn tìm về một cách chính xác dòng sông nơi nó đã ra đi khi nhỏ.Quả là điều bí ẩn khi chúng có thể nhớ đường về quê cũ, nhà sinh vật học người Mỹ Hasler đã tiến hành 20 năm nghiên cứu và cho rằng chính mùi vị của dòng sông giúp cá hồi nhớ được đường về cố hương của mình. Chúng sẽ trải qua hành trình dài 3000 dặm với vô vàn khó khăn, ghềnh thác chảy xiết và kẻ thù nguy hiểm như gấu rình rập. Nhưng điều đó vẫn không làm loài cá này chùn bước mà chúng luôn tiến về nơi chúng đã chào đời.
Trên đường tìm về cội nguồn, chúng sẽ gặp phải như gấu, sói,… ngoài ra những dòng nước chảy xiết cũng khiến chúng ngày càng xác xơ, đuối sức. Hành trình của cá hồi cũng giống như một hành trình giác ngộ vậy, chúng thỏa mình vẫy vùng trong đại dượng bao la khi còn trẻ nhưng khi đã „già“, chúng lại tìm cách quay trở về với nơi mình đã sinh ra. Một hành trình khó khăn, gian khổ để tìm về bản ngã của chính mình. Điều đó giống như một sự giác ngộ vậy!
Những ai đã từng đặt chân đến thành phố Phan Thiết, có lẽ sẽ khó có thể quên được hình ảnh một dòng sông êm đềm chảy uồn lượn giữa lòng thành phố nhộn nhịp này.
Dòng sông Cà Ty như một bản tình ca nhẹ nhàng, trầm lắng, gắn bó biết bao kỉ niệm đối với người dân nơi đây. Ngày nay dòng sông này đã trở thành một trong những địa điểm thu hút đông đảo du khách mỗi khi đến Phan Thiết bởi sự trong lành, hiền hòa và vẻ đẹp dịu dàng của nó.
Khác với những dòng sông khác ở Phan Thiết, vẻ đẹp dòng sông Cà Ty chẳng những mang một nét rất riêng mà quanh năm không ít thì nhiều vẫn ngập nước, không cạn vào mùa nước rút và đầy vào mùa nước lên như những con sông khác. Sông Cà Ty Phan Thiết trước đây có tên là dòng sông Mường Hán. Là hợp lưu của 2 con sông chảy về chính là Ta Da và sông Mống, sông Cà Ty trải dài 65km uốn lượn khắp thành phố biển xinh đẹp này.
Chẳng biết từ bao giờ cái tên Cà Ty xuất hiện để gọi cho con sông này, nhưng cho đến nay cứ nhắc đến Phan Thiết là luôn đi đôi với con sông này. Dòng sông Cà Ty như một minh chứng lịch sử sống cho sự hình thành và phát triển của thành phố Phan Thiết, vì thế mà dòng sông này mang một ý nghĩa rất lớn đối với người dân địa phương nơi này
Quê ngoại tôi nằm bên dòng sông Cà Ty , năm 2014 tôi về quê sau 51 năm . Tôi đặt phòng ở khách sạn Đồi Dương , nhìn ra bải biển Đồi Dương .
Kỷ niệm là một cái gì đó rất khó quên, và dẫu thời gian có trôi đến vô vàng, thì kỷ niệm vẩn luôn động lại. Kỷ niệm là những khoảnh khắc trong kí ức, khó có thể nào quên được.
Les dunes de sable de Mui Ne
Beaucoup de visiteurs aiment se rendre sur ces dunes de sable qui sont similaires à celles que l’on trouve dans le désert du Sahara et qui sont situées non loin des plages de Mui Ne. Il y a deux endroits fascinants à visiter : les dunes blanches et les dunes rouges.
Les dunes blanches sont les plus grandes et sont connues par les habitants sous le nom de « Bau Trang ». Il y a quelques petits kiosques qui vendent de la nourriture et des boissons, ils se trouvent le long des pins.
Les dunes rouges, comme son nom l’indique, se distinguent par un sable de couleur brun-rougeâtre, qui en fait un lieu plus populaire pour la photographie. Plus petites que les dunes blanches, elles sont plus faciles à atteindre. La luge des sables est une activité connue et amusante que vous pourrez pratiquer ici, mais il est difficile de savoir précisément quel est le meilleur endroit pour en faire, parce que le sable se déplace de saison en saison. Il est à noter qu’il est plus facile de faire de la luge sur du sable sec.
đồi cát bay 2014
Đồi Cát Mũi Né, còn gọi là Đồi Cát Bay là một trong những bải cát trãi dài nhiều cây số từ tỉnh Bình Thuận đến Ninh Thuận nhưng điểm tham quan chính của đồi cát và được xem là đẹp nhất nằm trên đường ra Mũi Né. Cát có màu sắc chính là vàng, gọi là đồi cát bay vì hình dáng của đồi Cát thay đổi theo giờ, theo ngày, theo tháng v..v và không có hình dáng nhất định.
Bàu Trắng 2015
Bình Thuận năm xưa
PHAN THIET 1965 – Along the river. Dọc con sông Cà Ty. Photo by John Hansen
I lived in this place for about two months in early 1965. At the time it was home for the staff manning the Decca Navigator „Green“ transmitter station in Phan Thiet.
The Decca Navigator System was a hyperbolic radio navigation system which allowed ships and aircraft to determine their position by receiving radio signals from fixed navigational beacons. The system used phase comparison of two low frequency signals between 70 and 129 kHz, as opposed to pulse timing systems like Gee and LORAN. This made it much easier to implement the receivers using 1940s electronics, eliminating the need for a cathode ray tube.
The system was invented in the US, but development was carried out by Decca in the UK. It was first deployed by the Royal Navy during World War II when the Allied forces needed a system which could be used to achieve accurate landings and was not known to the Germans and thus free of jamming. After the war, it was extensively developed around the UK and later used in many areas around the world. Decca’s primary use was for ship navigation in coastal waters, offering much better accuracy than the competing LORAN system. Fishing vessels were major post-war users, but it was also used on aircraft, including a very early (1949) application of moving map displays.
Tôi sống tại nơi này khoảng hai tháng đầu năm 1965. Vào thời gian này đây là nơi cư ngụ cho toán nhân viên trạm truyền tín hiệu Decca Navigator „Green“ tại Phan Thiết.
Phan Thiết ơi ngàn năm vẫn mãi trong ta.
Đồi Dương cát trắng bao la.
Phan Thiết ơi. ngàn năm như vẫn đợi chờ
Bâng khuâng nỡi nhớ bên bờ Mường Giang.
Phan Thiết ơi, ngày xưa ai đã đi qua.
Để cho tiếng hát câu ca
Đi vào giấc mộng đời ta.
Suối Tiên , Fairy Springs
Suối Tiên Mũi Né gọi là suối nhưng thực chất là một khe nước nhỏ gần hòn Rơm thuộc phường Mũi Né, thành phố Phan Thiết. Để cuộc hành trình khám phá suối Tiên được trọn vẹn, du khách nên đi bộ khoảng 2km từ đường Võ Nguyên Giáp (đầu suối) đến đường Huỳnh Thúc Kháng (cuối suối).
Tháp Poshanu 2014
Sông Cà Ty Phan Thiết trước đây có tên là dòng sông Mường Hán. Là hợp lưu của 2 con sông chảy về chính là Ta Da và sông Mống, sông Cà Ty trải dài 65km uốn lượn khắp thành phố biển xinh đẹp này.
Chẳng biết từ bao giờ cái tên Cà Ty xuất hiện để gọi cho con sông này, nhưng cho đến nay cứ nhắc đến Phan Thiết là luôn đi đôi với con sông này.
Firebase Betty
Firebase Betty (also known as Currahee Base Camp, Landing Zone Betty or Phan Thiết) is a former U.S. Army and Army of the Republic of Vietnam (ARVN) base south of Phan Thiết in Bình Thuận Province, southern Vietnam.
The base was established at the French-era Phan Thiết airfield approximately 5 km southwest of Phan Thiết and 2 km east of Highway 1.
The first U.S. Army unit based here was the 2nd Battalion, 7th Cavalry from September 1966 to December 1967 as part of Operation Byrd.
Vietnam’s literary scene is filled with colorful characters and mystifying urban legends, but no other poet has received as much fanfare – or as much scrutiny – as Han Mac Tu, one of the country’s most revered literary figures.
Han Mac Tu was born into a Catholic family in 1912. Growing up in Quang Binh province, he expressed great interest in literature from an early age and started playing with rhymes and stanzas at 16. He befriended many academics at the time who shared his love for poetry and writing, including Phan Boi Chau, a prolific writer.
Chau and Tu’s friendship led to the young poet’s first foray into proper poetry writing, when his poem “Thuc Khuya” (“Staying Up Late”) was published in a newspaper thanks to Chau’s referral.
At 21, Tu decided to pack up his life and move to Saigon in hopes of pursuing his dream career in writing. Quickly losing interest in his first job at the surveyor’s office, he moved on to work for Trong Khue Phong (In Her Boudoir) newspaper as an editor for its poetry section. Little did he know that this job would lead him to Mong Cam, his first and most talked-about love.
Throughout his life, Tu was linked with many women but his romance with Mong Cam is the most well-known. Also a lover of literature, she used to submit short poems for his poetry column. Eventually, they started exchanging letters back and forth between Saigon and Phan Thiet, where she lived. One thing led to another, they fell for each other and henceforth a romance began that would go on to inspire some of the most passionate and heart-wrenching poems in Tu’s oeuvre.
Unfortunately, their love was short-lived. In early 1935, Tu started showing symptoms of leprosy, a little-known but widely feared disease at the time. He brushed it off initially, however a year later, after publishing his first poetry collection, Gai Que (Country Girls), Tu’s condition worsened. The illness progressed quickly, and by 1939, he was usually in extreme pain.
According to VnExpress, in an interview published in 1961, Cam shared the details about one of her last rendezvous with the poet.
“One time, when we were out in Lau Ong Hoang, he confessed his love for me,” she told the interviewer. “I said that it would probably never end in happy-ever-after. He asked why, and I attributed it to differences in religious beliefs.”
“We still kept in touch for a few years,” Cam continued. “During this period, sometimes he insisted on meeting each other’s parents and even mentioned marriage, but I always tried to find a reason to say no.”
Eventually in 1940, Tu went back to Quy Nhon where he grew up, and passed away in Tuy Hoa Hospital at the tender age of 28.
Today, Saigon’s Han Mac Tu is a tiny, residential street located in Tan Phu District, not far from the airport.
Tháp cách thành phố Phan Thiết 7km, nằm trong khu di tích Lầu Ông Hoàng ngày xưa. Tháp nằm trên ngọn đồi Bà Nài, thuộc phường Phú Hải. Khi mưới xây dựng, tháp Chàm được coi là công trình vĩ đại và là biểu tượng của Vương quốc Chăm Pa thời đó.
Đến thế kỷ 15, quần thể tháp được xây dựng thêm một số đền thờ với kiến trúc đơn giản để thờ công chúa Poshanư – con vua Para Chanh. Công chúa Poshanư là người được nhân dân yêu quý về tài đức và phép ứng xử.
Bà cũng chính là người đã chỉ dạy nhân dân trồng lúa nước, dệt vải thổ cẩm, trồng trọt, chăn nuôi…
https://www.youtube.com/watch?v=R3mqTPJtJ18
Trần Thiện Thanh sinh năm 1942 tại Phan Thiết, Bình Thuận. Ông đến Sài Gòn năm 1958, sau khi học xong thì làm giáo viên trung học. Đầu thập niên 1960, Nhật Trường lập ban Tứ Ca Nhật Trường gồm ông và 3 nữ ca sĩ: Như Thủy (em gái của ông), Vân Quỳnh và Diễm Chi. Ngoài ra, ông còn điều hành trung tâm phát hành nhạc và thu băng tên là Tiếng Hát Đôi Mươi.Năm 1993, ông di cư sang Hoa Kỳ theo diện đoàn tụ gia đình ODP.Trần Thiện Thanh qua đời vào ngày 13 tháng 5 năm 2005 tại nhà riêng ở thành phố Westminster, Quận Cam, California (Hoa Kỳ).
Thi thể ông được hoả táng và đưa về Việt Nam thờ tự tại chùa Phước Huệ, thành phố Bảo Lộc, tỉnh Lâm Đồng.
Bãi biển ở Cổ Thạch
Phan Thiet 2020©. Copyright Tai Do Khac , Mémoires d’Indochine Februar 2020
______________________________________________
Bơ Bretel hay còn gọi là Bơ Đồng Tiền, đối với nhiều khách hàng trung niên thì đây không chỉ là món bơ quen dùng mà nó còn gắn với nhiều kỉ niệm thời trẻ của họ. Có “lão nhân” xúc động rưng rưng khi tìm được nơi bán, có vị cầm hộp bơ trong tay mừng rỡ như gặp người quen lâu ngày,.. cũng có vị tâm sự: Tôi mua bơ Đồng Tiền này từ hồi giá nó chỉ mới vài chục nghìn đồng, quý đến nổi chỉ dám để dành uống café. Mỗi lần chỉ dám dùng đầu tăm chấm một xíu bơ quậy vào tách café, vị thơm lừng, beo béo nhưng không ngậy, hương vị tuyệt hảo không lẫn vào đâu được”.
Bơ Bretel được sản xuất bởi hãng Maison Bretel Frères năm 1871 sáng lập bởi hai anh em Eugène Bretel và Adolphe Bretel ở Valognes (Pháp). Nó chỉ để xuất cảng mà thôi và do đó beurre Bretel bán trong hộp là beurre trộn muối để bảo quản lâu không bị hư thối dù được bán trên quầy hàng chưng bày ngoài trời trong những quốc gia nhiệt đới. Đồ ăn của lính lê dương ở Đông Dương.
Trở về quá khứ thời Đông Dương:
Hồi nhỏ ưa ăn bơ Bretel quẹt lên bánh mì, uống cà phê phải cho một chút bơ vô tách cho thơm mới chịu.
Càphê Trung Nguyên với bơ Bretel
Anh phải làm sao đây em, làm sao khi nỗi nhớ em vẫn làm Anh khao khát được bên em, được yêu em như ngày xưa. „Nhủ lòng mình phải quên để bước tiếp, một cuộc sống bên Anh không có em“… thế nhưng sao thật khó, Anh không muốn quên em, Anh không thể, Anh không làm được…
Đã rất nhiều lần Anh tự bảo mình không được nhớ tới em nữa nhưng rồi trái tim Anh lại thôi thúc nhớ và nghĩ đến em. „Không biết giờ này em đang làm gì nhỉ, em có còn nhớ tới Anh nữa hay không“, Anh vẫn luôn tự hỏi mình như thế mỗi khi nhớ tới em và rồi lại tự làm mình buồn. Nhưng Anh chấp nhận chỉ cần được nghĩ đến em trong phút giây thôi, được nhìn thấy em cười, nghe tiếng em nói, để trong thoáng chốc Anh thấy mình lại được sống trong tình yêu như chưa có những tháng ngày xa cách.
Xin một lần nữa cho Anh được sống với trái tim mình và cũng là lần cuối Anh viết về em…
Kỹ niệm là một thứ một thứ rất khó quên và không phải lúc nào ta cũng muốn nhớ thế nhưng khi những cơn mưa bắt đầu về thì mọi kỷ niệm anh cố chôn dấu lại cũng trở về in đậm như mới chỉ ngày hôm qua.
Anh Khoa tên thật là Trần Công Khai , quê quán Phan Thiết, ngày sinh nhật là 20 tháng 5. Năm 12 tuổi anh đã được đề cử tham dự cuộc thi văn nghệ ấp Chiến Lược toàn quốc tổ chức tại rạp Quốc Thanh và đã chiếm giải với nhạc phẩm „Nếu Một Mai Anh Biệt Binh Kỳ“.
Trần Thiện Thanh sinh năm 1942 tại Phan Thiết, Bình Thuận. Ông đến Sài Gòn năm 1958, sau khi học xong thì làm giáo viên trung học. Sau đó, ông tốt nghiệp trường Hạ sĩ quan năm 1965, phục vụ tại Cục Tâm lý chiến thuộc Bộ Tổng tham mưu Quân lực Việt Nam Cộng Hòa cho đến cuối tháng 4 năm 1975. Ông cũng làm việc tại Ðài Phát thanh và Truyền hình Quân Ðội, từng là Trưởng ban văn nghệ của đài và sau năm 1968 còn phụ trách thêm chương trình phóng sự chiến trường.
Mưa về sự thật hiển nhiên bất cứ khi nào ta nhắc đến mưa, mưa buồn cảng bước chân ta không thể dạo phố với bạn.
Mưa sao không thể xóa được bước chân em trên con đường xưa bước chân em đi qua.
Anh lạnh lùng tê tái khi không còn em nhưng lại còn những kỷ niệm của anh của e và của hai đứa mình.
Dưới mưa anh không thể làm con ốc lạnh lùng mà người ta vẩn thấy, mưa gọi về trong anh khoảnh khắc thật của chính mình. Phải đối mặc với mọi sự thật dấu kính trong sâu thẳm của trái tim anh. Cô đơn và lạnh lẻo.
Anh ghét mưa lắm đơn giản mưa giống em, khi đến nhẹ nhàng nồng ấm, khi đi lại quá lạnh lùng vội vả, anh ghét mưa vì chính mưa anh nhận ra mình chưa bao giờ vượt qua mọi thách thức của cuộc sống.
Bằng chứng là trông giây phúc này anh lại nhớ em.
Một nổi nhớ không nên lời, giờ đây anh chỉ biết khóc, anh ghết mưa vì kết quả năm tháng qua anh chờ em là vô vọng và bây giờ chỉ có riêng anh là người phải khóc. Là người phải đau phải khổ
Kỷ niệm là một cái gì đó rất khó quên, và dẫu thời gian có trôi đến vô vàng, thì kỷ niệm vẩn luôn động lại
Hảy để nước mắt, hảy để những nổi buồn lắng lại ở một gốc sâu thẳm nào đó ở trong tâm hồn anh. Anh tin là dù thời gian không thể xóa nhòa hoàn toàn mọi kỷ niệm về em, nhưng ít ra thì thời gian cũng sẻ mang lại cho anh một niềm tin mới hy vọng mới… [2015 bởi Thanh Cường Lê]
Bất cứ ai trong mỗi chúng ta, chắc hẳn đều có “tuổi thơ dữ dội”, hay khi ở tuổi trưởng thành sẽ có “một thời để nhớ”. Theo cảm nhận riêng của từng người, những hình ảnh gắn liền với bao cảm xúc: Vui, buồn, giận dỗi, thất tình, tự hào… để rồi, mỗi khi nhớ về nó, dòng chảy hoài niệm lại ùa về cùng ký ức. Hoài niệm là gì? Bạn có phải là một người thích hoài niệm?.
Khi có ai hỏi bạn hoài niệm là gì, bạn có thể trả lời hoài niệm giống như một loại cảm xúc, đôi khi còn được xem là một tình trạng bệnh lý có liên quan mật thiết đến việc khao khát những gì đã thuộc về quá khứ, thông qua việc lý tưởng hóa những ký ức đó trong suy nghĩ của mỗi người.
Hay nói cách khác, hoài niệm là sự luyến tiếc về quá khứ, nhớ nhung một điều gì đó khi đã rời xa. Hoài niệm có thể là cảm xúc tiêu cực hoặc tích cực tùy theo xu hướng cảm xúc của mỗi người.
Hoài niệm về quá khứ không hề xấu, tuy nhiên đừng quá “lạc lối” trong quá khứ mà quên mất hiện tại và tương lai trước mắt bạn.
“Cọp Khánh Hòa, ma Bình Thuận”
Về mặt địa lý, Bình Thuận ngày xưa thuộc vùng đất Chiêm thành là biên giới tiếp giáp đất Chân Lạp cũ, là nơi thường xuyên xảy ra các trận chiến ác liệt của vương quốc Chân Lạp với vương quốc Chiêm Thành, máu chảy thành sông, thây chất đầy nội. Ngay cả khi đế chế Angkor của Khmer đánh chiếm Chiêm Thành cũng chỉ phần đất phía Bắc tiếp giáp Đại Việt tại châu Nghệ An, còn phần đất Chiêm Thành Nam kéo dài đến Phan Thiết vẫn giữ vững nên các cuộc chiến tranh liên miên dường như không bao giờ dứt. Đất Bình Thuận xưa (cả tỉnh Ninh Thuận ngày nay kéo dài đến Đồng Nai) được coi là vùng cực Nam Trung bộ, đây cũng là nơi kết thúc vương triều Chiêm Thành trong lịch sử với hình ảnh tháp Chàm Poshanu trên đồi Ông Hoàng, Phan Thiết ngày nay trước khi sáp nhập vào Đại Việt.
Sợ sắt, sợ đá, sợ vôi, sợ chì. . .”
Để cha Quản Hựu của con đi cày
Ầu ơi, con ngủ giấc lành
Để mẹ gánh nước tuới hành tưới dưa”
…
Với người Bình Thuận, ngãi bùa của người Chàm và Chà Và mới là một bí ẩn đáng sợ hơn ma rất nhiều. Vì có rất nhiều người đi tìm trầm hương, đá quý nên ngãi mách, ngãi chỉ đường, bùa tránh ma, tránh ông ba mươi là những huyền bí luôn thách thức con người nuôi mộng làm giàu và quyết chí lao vào cõi ma muội để hy vọng được đổi đời….
Vàng Hời và lời nguyền huyền bí
Vàng Hời: Theo những người làm nghề kim hoàn đó là vàng của các vua chúa người Chăm, được chôn giấu ở những kho bí mật dưới đất lâu năm. Những loại vàng Hời thường gặp là hình buồng cau, trầu, con gà trống… Vàng này vì pha nhiều bạc, khoảng từ 6 đến 6,5 tuổi nên có màu sáng hơi xanh.Tiết trời tháng mười một lạnh căm. Gà gáy canh hai, ông Trần Mười ra chuồng mở trâu đi cày thì thấy ngay chỗ mả vôi sáng trưng. Một con gà trống bằng vàng tỏa anh kim quang lấp lóa dẫn theo một đàn gà mái và gà con nhỏ hơn. Ông vội vàng chạy vào nhà tìm một chiếc quần phụ nữ màu đen. Lúc trở ra, đàn gà vàng đã biến mất.
Chuyện vàng Hời không lạ lùng chi với người làng. Trẻ con cũng biết. Gà vàng thường đi ăn đêm. Khi nhìn thấy, chỉ cần lấy một vật ô uế, như quần của phụ nữ chẳng hạn, trùm lên là bắt được ngay. Tuy nhiên, bắt được hay đào được vàng Hời không phải là điều may mắn. Chỉ 3 tháng 10 ngày sau, người được vàng Hời phải chết.
Hình như niềm tin nớ liên quan tới một lời nguyền của người Chiêm Thành, được truyền trong dân gian. Chính như rứa, chẳng ai mong muốn được gặp vàng Hời.
Ông Trần Mười ở một mình giữa gò Mồ Côi giữa đồng. Cạnh nhà ông, gần chỗ chuồng trâu có một cái mả cổ được xây bằng đá, kiến trúc kỳ lạ. Ai cũng nói đó là mả Chiêm Thành, dưới chôn rất nhiều vàng.Bao nhiêu lần cho trâu ăn cày khuya, ngang qua mả Chiêm Thành, chúng tôi vừa sợ vừa mong ngó thấy cón gà vàng hiện ra nhưng không hồi mô thấy được.
Làng phía sau Hòn Đền, thánh địa Mỹ Sơn, có rất nhiều di tích Chăm đã hoang phế theo thời gian. Cách gò Mồ Côi vài trăm mét có gò Mu Rùa. Hình ngọn gò này y hệt một con rùa, có đủ bốn chân, đầu, cổ. Trên đỉnh đồi khum khum hình mu rùa có một hố cạn, xung quanh có nhiều gạch Chăm vương vãi. Người ta kể, trước đây nơi đó có một ngọn tháp nhỏ, bị bom đạn đánh sập thời chiến tranh. Đó chính là nơi giấu vàng của Chiêm Thành. Nhiều người đã từng xem bóng tháp đổ vào ngày rằm tháng giêng để đào bới tìm vàng nhưng không gặp.
Ở chỗ Hố Cây Sông, dưới chân núi Cà Tang, ngay phần cuối của giồng Mả Vôi có một cái mả cổ khác. Mả cổ nớ giống y hình một con rùa. Cách đây chừng hai chục năm, hạn hán đói kém quá, một nhóm thanh niên lén lút đào trộm mả cổ này. Vì sợ chính quyền, nên việc đào bới được thực hiện ban đêm, giữa núi. Đây là lời kể của một người từng tham gia đào bới: Xuống sâu chừng 4m, dưới lòng ngôi mộ bắt đầu xuất hiện những tảng đá chẻ vuông vứt lát dọc theo một đường hầm. Lần theo đường hầm khoảng 10 m, tự nhiên có nhiều nhánh rẽ khác. Đào vào một nhánh, không thấy có gì cả. Cả nhóm sợ quá bèn thắp hương cúng bái xong rồi lấp trở lại ra về. Khoảng 3 tháng sau, một trong những người đào mả vôi ở Hố Cây Sông tự nhiên đột tử. Từ đó nhiều ngôi mả cổ khác trong làng liên quan đến người Chiêm Thành không ai dám xớ rớ tới.
Cốm tết, món ẩm thực không thể thiếu trên bàn thờ cúng ông bà, tổ tiên trong mỗi dịp tết đến, xuân về. Đã có một thời gian, cứ mỗi dịp tết đến, xuân về là nhà nhà làm cốm, người người làm cốm, trẻ con cầm trên tay hộc cốm tết chia nhau ăn thật thích thú. Tuy nhiên, giờ đây những hình ảnh đó ngày càng phai nhạt trong ký ức của nhiều người.
Cốm tết của người Bình Thuận có nét đặc trưng riêng không giống loại cốm làm bằng hạt nếp non gói lá sen của người miền Bắc, hay cốm nổ làm bằng gạo của người miền Tây. Cốm nổ Phan Thiết được làm từ gạo nếp ngon (nếp 3 tháng), được lấy từ Phú Long về, bởi loại nổ này sau khi bỏ vào miệng thì rất thơm, tan đều trong lưỡi nên khách hàng rất ưa chuộng. Nếp sau khi sơ chế thành nổ cốm được trộn đều với hỗn hợp đường cát, sữa, nước cốt dừa… đã được chế biến. Tùy theo khẩu vị mà người làm cốm kèm thêm một số phụ liệu nữa là gừng và thơm, nho khô, chuối khô… trộn đều từ 30 – 45 phút, sau đó để nguội là có thể đóng khuôn được. Hỗn hợp này tiếp tục được cho vào khuôn có hình chữ nhật (còn gọi là hộc cốm), trước đây hộc làm bằng gỗ, tuy nhiên trong quá trình làm hay bị dính khuôn và đổ nhớt, khó vệ sinh nên hiện nay nhiều người dùng hộc bằng nhựa, sau đó đậy nắp rồi dùng đòn bẩy nén chặt. Sau khi lấy ra khỏi hộc cốm được đem phơi nắng khoảng 4 – 5 tiếng rồi dùng giấy màu hoặc bao kiếng gói lại, sau đó đính kèm thêm vài bông hoa giấy dán thêm phía trước hộc cốm là sản phẩm đã hoàn thành.
Với những người con Bình Thuận xa quê, mỗi khi có dịp về quê ăn tết là không thể nào quên được vị cốm tết quê nhà. Những lát cốm vàng, xen lẫn với những mảnh thơm, mảnh gừng mỏng trông rất hấp dẫn. Trong thời tiết giá lạnh của ngày tết, cắn từng miếng nhỏ, nhai thật chậm sẽ cảm nhận được hương vị thơm ngon, ấm nồng của miếng cốm. Cốm hộc là thứ quà đặc trưng của vùng đất Bình Thuận, là tinh hoa truyền lại từ nhiều đời. Người Bình Thuận mỗi khi nhìn thấy cốm hộc là biết tết đến, xuân đã về, là nét đẹp văn hóa không thể lẫn vào đâu được của người dân Bình Thuận.
Tiếp theo là công đọan đóng cốm. Người ta dùng ván gỗ đóng các khuôn cốm giống như những khối vuông có cạnh khoảng 20 phân mét nhưng hai mặt rỗng. Sau khi cho cốm vào hộc , người đóng dùng một miếng gỗ rời ép chặt xuống cốm cho bằng phẳng. Tiếp theo , cốm được lấy ra xếp vào một tấm phên lớn, đem phơi nắng . Khi cốm đã khô, công đoạn cuối cùng là gói cốm. Giấy gói cốm tường là giấy bóng mờ hoặc giấy bóng kiếng đủ màu. Để hấp dẫn và bắt mắt hơn, người ta dán thêm một vài cái hoa văn lên hai đầu hộc cốm. Bây giờ ,mọi công đọan đã xong ,chỉ còn việc đem cốm đi bán .
kho thịt với măng khô
Nếu có dịp đến Mũi Né-Phan Thiết vào những ngày Tết Nguyên đán, bạn sẽ được thưởng thức những món ăn hương vị Tết cổ truyền, trong đó có món măng kho thịt cuốn bánh tráng mà rất nhiều du khách muốn nếm thử.
Món măng kho thịt là sự kết hợp hoàn hảo giữa vị thơm của măng và béo ngậy của chân giò được hầm kỹ. Vị ngọt thanh của nồi măng kho thịt như làm dịu đi cái chua của củ kiệu, dưa hành. Ngoài lý do là món ăn ngon, không ngán, nồi măng khô kho thịt còn phù hợp với tiết trời se lạnh của những ngày Tết, nhất là ở miền Bắc, miền Trung. Có lẽ vì thế mà trên mâm cỗ ngày Tết, nhà nào thiếu nồi măng kho thịt thì hương vị Tết cũng chưa được tròn đầy.
Cách nấu măng kho thịt cũng không quá cầu kỳ. Măng khô rửa sạch, ngâm qua đêm cho măng nở hết. Cho măng vào nồi luộc, nước ngập mặt, luộc vài lần cho đến khi nước luộc măng trắng và măng chín mềm, sau đó vớt ra rổ rồi xả với nước lạnh cho sạch, để ráo nước rồi xé nhỏ. Ướp măng với gia vị rồi trộn thật đều, sau đó bóc hành khô, cho vào chảo dầu phi thơm rồi đổ măng vào xào đến khi săn lại cho sợi măng ngấm gia vị. Thịt heo rửa sạch, chặt miếng vừa dùng rồi xát muối cho hết mùi, ướp gia vị để 30-45 phút cho ngấm gia vị rồi xào thơm, đổ ít nước vào rồi để lửa nhỏ. Tiếp tục cho măng đã xào vào nồi thịt rồi nấu cho đến khi măng mềm, thịt mềm là được, nêm nếm lại gia vị cho vừa ăn.
Thường miếng măng ăn ngon hơn miếng thịt bởi khi hầm với thịt, miếng măng thẩm thấu vị béo, vị ngọt của thịt mà vẫn giữ được cái bùi, cái đậm của hương vị núi rừng. Nếu cuốn với bánh tráng Bắc Bình, rau sống, củ kiệu, chấm thêm chút mắm đường ớt tỏi, món măng kho thịt ngon nhớ mãi.
Món măng kho thịt ngày tết thơm ngon sẽ bổ sung thêm gia vị ấm nóng cho bữa cơm gia đình, tạo cơ hội để mọi người cùng quây quần trong những ngày đầu xuân năm mới.
Hồi ký Việt Nam sống cùng năm tháng© , Tai Do Khac , 06.02.2021 Cộng Hoà Liên Bang Đức
___________________________________________________________